1. Cấp dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa cha, mẹ và con; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu… Đồng thời, Luật Hôn nhân và gia đình còn quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn là trách nhiệm của vợ, chồng người mà không trực tiếp nuôi con.

Có thể thấy rằng những người có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau cũng chính là những người có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau. Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các thành viên gia đình. Tuy nhiên, không phải tất cả các thành viên gia đình đều có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau. Nghĩa vụ cấp dưỡng vừa là một nghĩa vụ phát sinh do người do nghĩa vụ không sống chung với người được nuôi dưỡng, vừa là biện pháp chế tài đối với người có người nuôi dưỡng nhưng đã trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của mình. 

Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hôn là một nghĩa vụ pháp lý  mà cha hoặc mẹ bắt buộc phải làm đối với con, nếu con là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, khi không là người trực tiếp nuôi dưỡng con sau khi đã chấm dứt quan hệ hôn nhân bằng việc đóng góp tiền hoặc hiện vật tương ứng với nhu cầu thiết yếu của con đồng thời phù hợp với khả năng thực tế của mình. 

2. Quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn

Theo Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con…

Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định sau khi ly hôn, cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Từ đó, có thể xác định nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn thuộc về người không trực tiếp nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng này sẽ kéo dài đến khi người con đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình.

3. Quy định về bảo vệ quyền của người được cấp dưỡng

Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được cấp dưỡng, pháp luật cũng đã ghi nhận một số biện pháp và chế tài xử lý nhằm cưỡng chế, răn đe người có hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ, đảm bảo cho nghĩa vụ cấp dưỡng được thực thi hiệu quả hơn trên thực tế. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã ghi nhận quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thi hành án cấp dưỡng cho con phải thực hiện nghĩa vụ (khoản 1 Điều 119).

Khi phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì người trực tiếp nuôi con quyền đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó (khoản 3 Điều 119). Ngoài ra, pháp luật nước ta ghi nhận biện pháp trừ vào thu nhập của người có nghĩa vụ tại Điều 78 Luật Thi hành án dân sự năm 2008

4. Chế tài xử lý hành vi trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn

Nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì phải chịu biện pháp xử phạt hành chính. Tại Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ thì hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, chăm sóc con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng (điểm b khoản 1 Điều 57) và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc thực hiện nghĩa vụ đóng góp, nuôi dưỡng theo quy định (khoản 2 Điều 57).

Nghiêm trọng hơn, người trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng có thể phải chịu chế tài xử lý hình sự theo quy định tại khoản 37 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 2017: “Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm … thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.