Pháp luật với ý nghĩa là công cụ điều tiết, định hướng sự phát triển của các quan hệ xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích của con người thì pháp luật phải có phạm vi điều chỉnh rộng lớn nhất, tác động đến đông đảo các đối tượng nhất thì mới phát huy đầy đủ vai trò của mình. Trong những trường hợp, “tình ngay lí gian”, chỉ bằng lí trí, đạo đức là không thể đủ sức mạnh để đảm bảo quyền, lợi ích của những người liên quan. Vậy pháp luật Việt Nam, cụ thể là BLDS 2015 đã đáp ứng được yêu cầu khách quan đó hay chưa? Hay pháp luật chỉ bảo vệ cho những chủ thể chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật mà không điều chỉnh trường hợp chiếm hữu ngay tình, không có căn cứ pháp luật? Hãy cùng Luật sư tìm hiểu qua bài viết sau.
1.Chiếm hữu ngay tình theo quy định của BLDS 2015
1.1. Căn cứ pháp luật
- Điều 179 BLDS 2015
- Các Điều 182, 183 và 184 BLDS 2015
1.2. Phân tích quy định của pháp luật về chiếm hữu ngay tình, không có căn cứ pháp luật
Đầu tiên, ta phải xác định được khái niệm chiếm hữu. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 179 BLDS 2015: “1. Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản”. Và chủ thể của chiếm hữu có thể là chủ sở hữu tài sản hoặc người không phải là chủ sở hữu của tài sản (Khoản 2 Điều 179 BLDS 2015).
Khoản 1 Điều 165 có quy định rõ những ai là người chiếm hữu có căn cứ pháp luật trong đó có cả hai loại chủ thể là chủ sở hữu chiếm hữu tài sản và người không phải chủ sở hữu chiếm hữu tài sản và tại Khoản 2 Điều 165 quy định những người chiếm hữu tài sản không thuộc vào Khoản 1 Điều này là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Như vậy, rõ ràng có thể xảy ra trường hợp người không phải chủ sở hữu chiếm hữu tài sản là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật bởi theo như quy định tại Khoản 2 Điều 179: “Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu” nghĩa là việc chiếm hữu của các chủ thể không phụ thuộc vào việc chiếm hữu có căn cứ pháp luật hay chiếm hữu không có căn cứ pháp luật mà chủ căn cứ vào người chiếm hữu là chủ sở hữu tài sản hay người không phải chủ sở hữu tài sản, trong trường hợp chủ thể là người không phải là chủ sở hữu thì có thể là chiếm hữu có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Tuy nhiên, cần làm rõ trường hợp người không phải là chủ sở hữu chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật là ai, nếu không thì một tên cướp cũng có thể là người không phải chủ sở hữu tài sản chiếm hữu không có căn cứ pháp luật được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích.
Với quy định tại Khoản 3 Điều 184 BLDS 2015 quy định: “Người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai được áp dụng thời hiệu hưởng quyền và được hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan” ta có thể xác định, người không phải là chủ sở hữu tài sản chiếm hữu không có căn cứ pháp luật chỉ được pháp luật bảo vệ quyền, lợi ích khi người đó chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai tài sản. Theo Điều 180: “Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu” nghĩa là người chiếm hữu ngay tình có đủ cơ sở để tin tưởng rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu từ đó việc chiếm hữu được diễn ra liên tục và được thực hiện một cách công khai.
Một người khi có đủ cơ sở để tin mình có quyền đối với tài sản chiếm hữu thì mới có thể chiếm hữu liên tục trong thời gian dài và chiếm hữu một cách công khai và ta cũng có thể sử dụng căn cứ chiếm hữu liên tục và chiếm hữu công khai làm những cơ sở để xác minh người chiếm hữu ngay tình, không một tên cướp nào có thể chứng minh lai lịch của tài sản mình đang chiếm hữu từ đó chi phối tài sản đó công khai hay liên tục.
Do đó, theo quy định tại Điều 182 và Điều 183 BLDS 2015 thì việc chiếm hữu không liên tục, chiếm hữu không công khai được coi là căn cứ để suy đoán người chiếm hữu ngay tình hay không ngay tình để được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng. Chính vì thế, người chiếm hữu ngay tình phải đồng thời chiếm hữu liên tục và chiếm hữu công khai thì mới được pháp luật bảo vệ quyền, lợi ích và theo lập luận trên thì người chiếm hữu ngay tình tài sản đương nhiên là người chiếm hữu liên tục và công khai tài sản đó. Đây chính là việc pháp luật bảo vệ cho những trường hợp “tình ngay lí gian”.
1.3. Phân tích qua ví dụ thực tiễn
Ta có thể làm rõ hơn qua ví dụ minh họa sau:
Năm 2009, ông V và bà C cùng mua một mảnh đất giá 360 triệu đồng, trong giấy bán ghi rõ bán cho cả hai người là ông V và bà C, tiền mua đất được trả theo hình thức trả góp. Trong quá trình trả tiền, ông V trả số tiền 300 triệu đồng, bà C trả số tiền 107 triệu đồng (gồm tiền đất, tiền lãi ngân hàng), đều có giấy xác nhận giao nộp tiền. Sau đó chủ đất sang tên bìa đỏ cho bà C, ông V biết nhưng vì tin tưởng chỗ bạn bè nên ông không ý kiến gì. Sau khi mua mảnh đất, từ 2011-2016, ông V trực tiếp ở lại trên đất, sử dụng đất để canh tác, đầu tư thuê nhân công, mua phân bón về trồng trọt và thu hoa lợi. Tháng 8/2016, bà C tố cáo ông V chiếm đoạt đất của bà. Với các căn cứ: người cùng mua mảnh đất, có đóng góp tiền mua đất và sử dụng mảnh đất liên tục, minh bạch, không giấu diếm, ông V hoàn toàn có thể được suy đoán là người chiếm hữu ngay tình. Vì thế, ông đã khởi kiện lên tòa đòi chia mảnh đất, đòi bà C bồi thường thiệt hại việc phá hoại hoa màu và tài sản gắn liền với đất.[1]
2. Bảo vệ người chiếm hữu ngay tình theo quy định BLDS 2015
Để có thể đáp ứng yêu cầu bảo vệ các chủ thể chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật, pháp luật dân sự Việt Nam đã đặt ra một số các biện pháp, được coi là cơ sở, tiền đề chứng minh cho sự chiếm hữu của các chủ thể; để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đương sự phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh. Giám định cũng là một biện pháp thu thập chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình; quy định quyền chủ động cho đương sự, thì không cần quy định khi giám định bắt buộc phải theo trình tự tư pháp. Đương sự có quyền chủ động yêu cầu cơ sở giám định và xuất trình kết quả đó để chứng minh cho yêu cầu của mình hoặc phản bác yêu cầu của người khác. Nếu việc giám định đó là chính xác thì kết quả giám định sẽ là chứng cứ của vụ việc dân sự. Đương sự bên kia nếu không chấp nhận kết quả giám định thì có quyển yêu cầu Toà án trưng cầu giám định lại theo trình tự tư pháp, như vậy sẽ vừa bảo đảm được quyền và lợi ích của đương sự, vừa bảo đảm khách quan.
Nếu như trong tố tụng hình sự nhà nước phải chứng minh hành vi phạm tội thì mới được kết tội, do đó việc giám định bắt buộc phải theo trình tự tư pháp. Hiện nay pháp luật dân sự Việt Nam vẫn chưa có những quy định cụ thể về vấn đề tự yêu cầu giám định hay yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định theo trình tự tư pháp của đương sự trong vụ việc dân sự.
Như vậy, pháp luật không chỉ bảo vệ cho người chiếm hữu có căn cứ pháp luật mà còn bào vệ cho những người chiếm hữu ngay tình, chiếm hữu liên tục, chiếm hữu công khai – những người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Điều này không chỉ thể hiện sự kế thừa tinh thần của pháp luật dân sự Việt Nam qua các thời kỳ mà còn thể hiện sự hoàn thiện và thống nhất với tinh thần của Hiến pháp và các Điều ước, Hiệp ước quốc tế, khu vực mà Việt Nam là thành viên.
[1] Bản án 22/2019/DS-PT ngày 21/05/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông